Chào mừng đến với Cổng thông tin điện tử Bệnh viện Tâm thần Thành phố Hải Phòng
Kích động, một hành vi nguy hiểm nhất của bệnh nhân rối loạn tâm thần cần được xử lý an toàn

KÍCH ĐỘNG, MỘT HÀNH VI NGUY HIỂM NHẤT CỦA BỆNH NHÂN

RỐI LOẠN TÂM THẦN CẦN ĐƯỢC XỬ TRÍ HỢP LÝ AN TOÀN

                                                                           TS. Đàm Đức Thắng – Phó giám đốc Bệnh viện Tâm thần  - Hải Phòng

 

              Đặt vấn đề

Kích động là một hành vi nguy hiểm, là cấp cứu tâm thần thường gặp trong các rối loạn tâm thần (2,6-52% tổng số trường hợp cấp cứu tâm thần) và cũng là một trong những lý do chính để bệnh nhân phải nhập viện tâm thần điều trị. Các triệu chứng kích động bao gồm sự phấn khích, vận động quá mức và lời nói không phù hợp, sự thù địch, căng thẳng và thỉnh thoảng gây hấn. Kích động gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho bản thân bệnh nhân và có thể là nguyên nhân gây ra các hành vi bạo lực, khiến nhân viên y tế và gia đình gặp rủi ro (từ 5% đến 48% bác sỹ chuyên khoa tâm thần bị tấn công) và gây mất trật tự an toàn xã hội. Từ các hành vì này có thể dẫn đến các hành vi phạm pháp nguy hiểm (giết người, đốt nhà, gây thương tổn nặng nề…) phần lớn xảy ra rất đột ngột.

Việc quản lý những bệnh nhân bị kích động phải luôn bắt đầu bằng cách tiếp cận ít cưỡng chế nhất. Các biện pháp không dùng thuốc ban đầu bao gồm lời nói và giới thiệu bệnh nhân đến cơ sở điều trị thích hợp, tốt nhất là cơ sở được thiết kế để chăm sóc bệnh nhân tâm thần. Nếu các biện pháp bằng lời nói không thể kiềm chế được bệnh nhân, nên thực hiện cố định như là biện pháp cuối cùng để bảo vệ bệnh nhân và luôn đi kèm với việc sử dụng thuốc an thần kinh nhanh chóng.

          1. Khái niệm về kích động

           1.1.Định nghĩa kích động:

-  Kích động (agitation) là một trạng thái hưng phấn tâm lý – vận động qua mức, xuất hiện đột ngột, không mục đích rõ ràng, không thích hợp với hoàn cảnh và thường mang tính chất phá hoại, nguy hiểm. Kích động có thể biểu hiện dưới nhiều dạng, từ la hét, hăm dọa tới tấn công, đập phá, tự gây tổn thương

- Gây hấn (aggression) là trạng thái kích động hướng tới đồ vật, người khác, hoặc chính bản thân (tự sát, tự gây tổn thương). Gây hấn có thể biểu hiện qua ngôn ngữ hay hành vi.

– Bạo lực (violence) là hành vi sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực nhằm chống lại người khác hoặc bản thân.

– Phạm tội (crime) là hành vi bạo lực có liên quan tới pháp luật.

– Sự thù địch (hostility) là thuật ngữ có tính không đồng nhất, ám chỉ nhiều khía cạnh tâm thần khác nhau như gây hấn, kích thích, nghi ngờ, không hợp tác, hay ghen tuông.

          1.2. Đặc điểm lâm sàng trạng thái kích động tâm thần

+ Thay đổi hành vi:

- Thái độ hiếu chiến.

- Hành vi không phù hợp, không có mục đích rõ ràng.

- Kích động vận động.

- Không khả năng bình tĩnh.

- Nét mặt căng thẳng và biểu hiện tức giận.

- Ngang ngạnh và hoặc kéo dài tiếp xúc thị giác

- Kích động ngôn ngữ, im lặng hoặc từ chối giao tiếp.

- Thay đổi trạng thái cảm xúc với sự xuất hiện của sự lo lắng, cáu kỉnh hoặc thù địch.

- Sự gây hấn bằng lời nói và hoặc thể chất chống lại bản thân hoặc người khác.

+ Thay đổi nhận thức :

- Biến động về mức độ ý thức.

 - Mất phương hướng không gian tạm thời.

- Xu hướng thất vọng

- Khó lường trước hậu quả.

- Ý tưởng ảo tưởng và hoặc ảo giác.

+ Thay đổi thần kinh tự trị :

- Sốt

- Nhịp tim nhanh

- Rối loạn nhịp tim

- Đổ mồ hôi.

- Run rẩy

- Dấu hiệu thần kinh như đi lại khó khăn.

1.3. Đặc điểm trạng thái kích động ở môt số bệnh tâm thần

+ Do phản ứng

- Do nhận thức sai bị đưa đến một nơi để giam giữ hoặc bị cưỡng ép đưa đến bệnh viện.

- Do bất bình, giận dũa trước sự việc không vừa ý. Thường gặp ở bệnh nhân động kinh.

- Do say mê theo đuổi mục đích riêng mà người xung quang làm trở ngại hay gặp trong TTPL.

- Do sang chấn tâm thần mạnh gây ra.

- Do thay đổi đột ngột môi trường sinh hoạt. Hay gặp trong rối loạn phân ly và loạn thần phản ứng

- Lo lắng sợ hãi trước ảo giác rùng rợn hay hoang tưởng bị hại.

            +  Do các bệnh tâm thần :

            - Rối loạn cảm xúc lưỡng cực.

            - Tâm thần phân liệt.

            - Động kinh có rối loạn tâm thần.

            - Nhân cách bệnh.

            - Loạn thần trước tuổi già và tuổi già.

            - Các bệnh thực thể não

            - Những bệnh nhiễm khuẩn, nhiễm độc…

            1.4. Tần suất kích động ở bệnh nhân tâm thần

Kích động chiếm 2,6-52% tổng số trường hợp cấp cứu tâm thần trên toàn thế giới và khoảng 24% trường hợp cấp cứu tâm thần ở Brazil.

Một số lượng lớn bệnh nhân kích động có mặt tại các khoa cấp cứu và bác sĩ tâm thần thường được gọi đến để đánh giá và điều trị những bệnh nhân này. Các nghiên cứu cho rằng có từ 5% đến 48% bác sỹ chuyên khoa tâm thần bị tấn công  bởi bệnh nhân trong quá trình làm việc.

Tỷ lệ kích động ở các bệnh nhân tâm thần đạt đỉnh điểm vào thời điểm nhập viện và tỷ lệ này vẫn cao trong một thời gian sau khi xuất viện nếu bệnh nhân vẫn còn các triệu chứng loạn thần.

          2. Một số hướng dẫn về cách xử lý kích động

          2.1  Cơ cấu đội xử trí kích động (điều kiện cơ sở vật chất trang thiết bị và đội)

+ Điều kiện cơ sở vật chất trang thiết bị :

Điều quan trọng cần lưu ý là điều kiện cơ sở vật chất trang thiết bị lý tưởng để can thiệp kích động không phải lúc nào cũng có sẵn, vì các trường hợp kích động có thể xảy ra ở bất cứ đâu mà không dự báo trước. Trong trường hợp này, chúng ta nên sử dụng các nguồn lực sẵn có và tuân theo các khuyến nghị chung được nêu trong hướng dẫn hiện tại, chuyển bệnh nhân đến khoa cấp tính càng sớm càng tốt. Mối quan tâm ban đầu phải là sự an toàn của bệnh nhân và những người xung quanh. Bác sĩ và các thành viên khác trong nhóm không bao giờ được đặt mình vào tình thế nguy hiểm (ví dụ: trong phòng kín không có lối ra dễ dàng hoặc các tình huống nguy hiểm khác).

 Cơ sở vật chất trang thiết bị rất quan trọng để quản lý bệnh nhân bị kích động. Cần dành một khu vực cụ thể để xử lý các bệnh nhân tâm thần, có đội ngũ điều dưỡng chuyên trách. Cơ sở vật chất phải được kiểm soát phù hợp về nhiệt độ, ánh sáng, thông gió và tiếng ồn.

Đồ đạc phải được sắp xếp trong phòng chờ và phòng làm việc để tạo ra lối ra vào dễ dàng và linh hoạt cho cả bệnh nhân và nhân viên. Khả năng nhanh chóng loại bỏ đồ đạc cho phép thiết lập một môi trường an toàn nhanh chóng  ví dụ, một số buồng bệnh đồ đạc được gắn chặt vào sàn hoặc tường, vì vậy bệnh nhân không thể sử dụng chúng làm vũ khí.

 Buồng bệnh phải có các lối vào và lối ra thích hợp, màu sắc tươi sáng, và loại bỏ nhiệt nóng quá hoặc lạnh quá mức để tránh kích thích. Bệnh nhân phải được tạo cảm giác thoải mái, ít bị kích thích từ bên ngoài. Các phòng phải yên tĩnh và riêng lẻ, và thời gian chờ đợi nên được giảm thiểu càng nhiều càng tốt.

 Buồng bệnh phải có lối ra ở phía sau người nhìn thấy bệnh nhân, phải hoàn toàn không bị cản trở trong trường hợp có mối đe dọa không thể quản lý được.  Nên nhớ rằng các bác sĩ và nhân viên sẽ đối phó với những bệnh nhân kích động có hành vi nguy hiểm không lường trước được. Bất kỳ vật dụng nguy hiểm tiềm ẩn nào hoặc các đồ vật phải được loại bỏ, chẳng hạn như bút, vật sắc nhọn hoặc đèn bàn - phải được gỡ bỏ hoặc giữ chặt.

Thường thì kích động có nguyên nhân hữu cơ, và những bệnh nhân này có thể tiến triển và xuất hiện các biến chứng vốn có đối với bệnh hoặc thậm chí cả việc điều trị. Trang thiết bị cấp cứu phải dễ dàng có sẵn tại chỗ (oxy, máy hồi sức thủ công, thiết bị đặt nội khí quản, máy hút dịch tiết, xe đẩy …), phải được trang bị để thực hiện các xét nghiệm bổ sung như như đường huyết mao mạch, oxy trong máu và điện tâm đồ. Cũng cần có các dụng cụ hỗ trợ vật lý, chẳng hạn như dụng cụ cố định cổ tay, mắt cá chân và ngực.

Các khu vực quan sát nên được trang bị giường có đầu nâng và các thanh cố định để gắn các thanh chắn nếu cần thiết. Không thể để bệnh nhân theo dõi trên cáng. Bố trí buồng bệnh phải được tổ chức để tạo điều kiện thuận lợi cho việc quan sát, tầm nhìn không bị cản trở và loại bỏ tất cả các điểm mù.

Số lượng bệnh nhân không được vượt quá số giường có sẵn, vì bệnh nhân quá đông có thể làm tăng căng thẳng giữa bệnh nhân và nhân viên. Một mô hình thường được sử dụng là đơn vị chăm sóc đặc biệt về tâm thần (PICU). Đây là một đơn vị quan sát chuyên biệt với không gian nhỏ, trang thiết bị phù hợp, an toàn và đội ngũ được đào tạo.

+  Đội phụ trách bệnh nhân kích động

Nhóm cần được đào tạo và dựa trên các quy trình điều trị, phác thảo tất cả các bước trong chăm sóc bệnh nhân, bao gồm vai trò của từng người trong việc giải quyết vấn đề.

Bác sĩ và điều dưỡng tiếp xúc với bệnh nhân kích động đòi hỏi khả năng đa nhiệm và chịu được các ưu tiên thay đổi nhanh chóng của bệnh nhân. Bệnh nhân kích động rất giỏi phát hiện và khám phá các lỗ hổng trong buồng bệnh và cách quản lý. Các nhân viên tiếp xúc với bệnh nhân bị kích động phải nhận ra và kiểm soát các vấn đề đối phó đồng thời, cũng cần nhận ra giới hạn của mình và tìm hiểu khi nào cần tìm kiếm thêm sự trợ giúp.

Nên mặc quần áo bảo hộ lao động của nhân viên y tế vì trang phục không khiêu khích có màu trung tính và gắn thẻ tên. Nhân viên nên tránh đeo hoa tai, vòng cổ lủng lẳng hoặc để xõa tóc dài. Lý do cho các khuyến nghị như vậy là để ngăn chặn các cuộc tấn công của bệnh nhân hung hãn hơn. Cần duy trì khoảng cách thích hợp với bệnh nhân  kích động để bảo vệ bệnh nhân và nhân viên. Việc tiếp xúc trực tiếp bằng mắt trong thời gian dài và các chuyển động đột ngột có thể được coi là một mối đe dọa và nên tránh.

Điều cần thiết là bệnh nhân luôn cảm thấy được tôn trọng. Người ta phải cân nhắc một cách thận trọng vai trò của người lắng nghe đồng cảm và vai trò của một nhân vật có thẩm quyền (trưởng khoa hoặc điều dưỡng trưởng) thể hiện kiến thức về chủ đề và truyền sự tự tin và an toàn cho bệnh nhân và thành viên gia đình. Tương tự, cần tránh các hành vi khiêu khích và phán xét.

              + Đánh giá người bệnh

Việc đưa một bệnh nhân bị kích động vào khoa cấp tính đòi hỏi phải đánh giá tình hình nhanh chóng và hiệu quả để triển khai các biện pháp hành động tốt nhất càng sớm càng tốt. Các mục tiêu chính của việc chăm sóc bệnh nhân bị kích động tâm thần là: sàng lọc và đánh giá mức độ nghiêm trọng; tiền sử khách quan và chủ quan; khám sức khỏe và thần kinh; khám tâm thần; Chẩn đoán phân biệt; an thần nhanh chóng.

Trong trường hợp bệnh nhân bị kích động có hành vi bạo lực, có thể khó thực hiện tất cả các bước này ngay sau khi bệnh nhân đến khám. Thông thường, bệnh nhân phải được an thần trước khi có thể thực hiện đánh giá.

Vì thời gian rất quan trọng trong trường hợp khẩn cấp, chúng tôi khuyên bạn nên sử dụng bốn câu hỏi cơ bản như sau:

1.Điều gì đang xảy ra?

Liệt kê những thay đổi trong hành vi được quan sát thấy là nguyên nhân cần quan tâm. Đôi khi bệnh nhân và gia đình của họ có thể sử dụng quá nhiều từ hoặc cung cấp thông tin không đúng sự thật. Điều quan trọng là phải xác định những thay đổi cấp tính trong hành vi có thể khiến bệnh nhân hoặc những người khác gặp nguy hiểm. Điều quan trọng là phải loại bỏ bất kỳ nguyên nhân thực thể nào có thể biểu hiện như những thay đổi về tâm thần hoặc hành vi.

2.Trong bao lâu?

Tìm hiểu xem bệnh nhân đã biểu hiện những hành vi khác nhau này trong một khoảng thời gian dài hay ngắn, và thực tế có bất kỳ thay đổi lớn, cấp tính nào trong hành vi hay không. Hãy nhớ rằng ngay cả trong trường hợp bệnh nhân có tiền sử bị kích động lâu dài, tình hình có thể cấp bách. Những thay đổi đột ngột trong hành vi cũng có thể là do các yếu tố thực thể.

3.Tại sao là ngày hôm nay?

Tìm hiểu lý do tại sao họ chọn thời điểm đó để tìm kiếm sự trợ giúp khẩn cấp.

4. Các giả thuyết chẩn đoán hợp lý hoặc các chẩn đoán tạm thời là gì?

Liệt kê các giả thuyết chẩn đoán để bắt đầu quá trình chẩn đoán phân biệt và xác định cách ứng xử tốt nhất. Trong phòng cấp cứu, tốt nhất là sử dụng các chẩn đoán hội chứng như rối loạn tâm thần hoặc rối loạn cảm xúc, vì thời gian nên sẽ không cho phép chẩn đoán chi tiết hơn. Để ý các nguyên nhân có thể gây ra kích động.

              2.2. Thái độ và cách tiếp cận bệnh nhân kích động

Khi tiếp xúc với một bệnh nhân kích động, điều quan trọng là phải giữ khoảng cách và tôn trọng không gian cá nhân của bệnh nhân. Bệnh nhân có thể hiểu giao tiếp bằng mắt trực tiếp kéo dài hoặc cường độ cao là một mối đe dọa. Ngôn ngữ cơ thể và vị trí cũng có thể được xem xét đe dọa hoặc xung đột (ví dụ: khoanh tay hoặc giấu tay sau lưng). Chúng tôi khuyến cáo rằng những bệnh nhân bị kích động không được phỏng vấn bởi một nhân viên duy nhất. Các khuyến nghị khác là để giảm thiểu bệnh nhân thời gian chờ đợi, có thái độ tự tin, tôn trọng và chu đáo, và tiếp cận bệnh nhân cẩn thận.

Can thiệp trị liệu đầu tiên với một bệnh nhân bị kích động thường là bằng lời nói và dựa trên đối thoại đồng cảm. Nhóm xử trí phải chứng minh rằng họ tìm hiểu  đầy đủ về sức khỏe của bệnh nhân và đảm bảo rằng họ được bảo vệ khỏi bị tổn hại. Mục đích là thiết lập mối quan hệ tốt đẹp giữa nhân viên và bệnh nhân, dựa trên sự tin tưởng và tôn trọng, vì vậy bệnh nhân sẽ cảm thấy được chào đón và tin rằng nỗi đau của mình được công nhận. Điều này sẽ giúp thiết lập một nỗ lực chung để kiểm soát tính hung hăng.

Một số khuyến nghị ban đầu về thái độ và hành vi tương đối đơn giản có thể giúp ích rất nhiều trong việc quản lý bệnh nhân bị kích động. Thầy thuốc phải tự giới thiệu với bệnh nhân bằng cách nêu tên và vai trò của họ trong tình huống. Họ phải luôn sẵn sàng để gặp bệnh nhân và giải thích những gì đang được thực hiện. Hãy chú ý lắng nghe những gì bệnh nhân đang nói và làm. Không bao giờ quay lưng lại với một bệnh nhân đang bị kích động. Sử dụng các từ đơn giản và câu ngắn. Nói chậm nhưng chắc và tránh giọng điệu hoặc từ ngữ có vẻ thù địch hoặc quá độc đoán. Các can thiệp bằng lời nói phải rõ ràng và khách quan. Mặc dù không nên mặc cả với bệnh nhân, nhưng phải duy trì một số linh hoạt trong cuộc phỏng vấn và chú ý đến những gì bệnh nhân đang nói hoặc muốn. Di chuyển chậm và giữ khoảng cách nhất định với bệnh nhân. Điều này sẽ ngăn chặn sự tấn công của bệnh nhân đối với thầy thuốc và làm cho bệnh nhân cảm thấy bình tĩnh hơn. Tùy thuộc vào các triệu chứng loạn thần, tiếp xúc cơ thể có thể được coi là đe dọa.

Các giới hạn liên quan đến nguy cơ tổn hại về thể chất và các quy tắc trong điều trị và chăm sóc phải được nêu rõ ràng và khách quan ngay từ đầu, không đe dọa hoặc sỉ nhục. Đây không phải là lúc đối đầu. Bệnh nhân phải được khuyến khích để bày tỏ suy nghĩ của họ bằng lời, và bác sĩ phải nhấn mạnh khả năng tự kiểm soát của bệnh nhân. Duy trì giao tiếp bằng mắt và cố gắng tránh ghi chép.

Nếu sự can thiệp bằng lời nói là không đủ và tình trạng kích động trở nên tồi tệ hơn, các biện pháp ngăn chặn phải được thực hiện ngay lập tức để bảo vệ bệnh nhân và những người khác và duy trì mối quan hệ tích cực giữa các cá nhân .

              2.3. Xử trí kích động bằng hóa dược

– Mục tiêu chính của điều trị thuốc là xoa dịu nhanh nhưng không gây mê. Trong suốt quá trình điều trị thuốc, người khám tiếp tục duy trì xoa dịu bằng lời nói và điều chỉnh môi trường.

– Khi có thể, đường sử dụng thuốc nên không xâm lấn và không sang chấn, đơn trị liệu, thuốc tác dụng nhanh.

– Trong trường hợp kích động tâm thần: nếu kích động do triệu chứng loạn thần, ưu tiên sử dụng chống loạn thần (an thần kinh); nếu kích động không do loạn thần, có thể cân nhắc benzodiazepine (BZD). Trong tình huống  sử dụng an thần kinh (ATK) có tác dụng nhanh và người bệnh hợp tác, cân nhắc chế phẩm đường hít (loxapine) hay đường uống/ dưới lưỡi (olanzapine, risperidone, asenapine, aripiprazole, quetiapine, ziprasidone, hay haloperidol). Các thuốc ATK tiêm bắp (haloperidol, olanzapine, ziprasidone, aripiprazole, và levomepromazine) có thể cân nhắc cho người bệnh không hợp tác. Dù ATK sử dụng nhiều trong kích động, một số có chỉ định chính không phải dành cho kích động mà là cho bệnh loạn thần.

– Với kích động do bệnh lý y khoa hay do nguyên nhân không biệt định, nên khởi đầu với ATK. Với kích động trong bệnh Parkinson hay hội chứng giống Parkinson, tránh ATK  cổ điển ( Aminzin, Haloperidol …). Với kích động sau cơn co giật, khuyến cáo BZD.

– Với kích động liên quan ngộ độc rượu/ BZD, thận trọng nguy cơ suy hô hấp khi sử dụng thuốc làm êm dịu. Nên cân nhắc CLT để tránh tăng huyết áp và suy hô hấp. Trong trường hợp cai rượu, cân nhắc BZD để giảm nguy cơ co giật và sảng run. Bên cạnh đó, thêm vitamin B có thể giúp phòng ngừa các biến chứng nghiêm trọng ở bệnh nhân sử dụng rượu. Với ngộ độc cocaine và chất tổng hợp, có thể cân nhắc BZD khởi đầu (thay vì CLT) để giảm nguy cơ co giật.

              2.4. Cố định bệnh nhân.

 Trong các tình huống đặc biệt và như biện pháp cuối cùng để kiểm soát người bệnh kích động nặng, không hợp tác, có thể cần phải sử dụng cách ly và cố định thể chất để đảm bảo an toàn cho người bệnh và nhân viên và để hỗ trợ việc xử trí thuốc.

Một nghiên cứu gần đây ở Brazil cho thấy rằng phương pháp cố định được sử dụng phổ biến nhất (47,8%) là phương pháp cố định 4 điểm (2 tay, 2 chân) và nhiều bệnh nhân đã cố định lâu hơn 240 phút (27,3%). Kiểm tra và nghi lại dấu hiệu sinh tồn hoàn chỉnh đạt 40,8% tại ba thời điểm là ngay sau khi được cố định, 30 phút sau đó và khi bỏ dây cố định .Về các tác dụng ngoại ý, 56,2% bệnh nhân hoàn toàn bình thường; 42,6% bệnh nhân không có thông tin về các tác dụng phụ được ghi nhận. Chỉ 0,4% bệnh nhân bị mất nước như một tác dụng phụ.

a. Khuyến nghị cố định bệnh nhân

-Sự can thiệp cố định chỉ nên được xem xét khi tất cả các kỹ thuật giảm kích động khác đã thất bại.

- Phải xác định việc chăm sóc bệnh nhân tốt nhất trong việc ngăn ngừa, giảm thiểu và khi có thể loại bỏ can thiệp cố định.

- Nếu can thiệp cố định là không thể tránh khỏi, thì không được sử dụng nó trong thời gian dài, và phải chấm dứt ngay khi có cơ hội.

- Nhân phẩm của bệnh nhân phải được tôn trọng trong khi can thiệp cố định, và lý do của việc can thiệp phải được giải thích càng nhiều càng tốt.

-Tất cả nhân viên tham gia vào can thiệp cố định cần được đào tạo theo một tiêu chuẩn hóa.

- Bác sĩ hoặc nhân viên khác phải thông báo cho bệnh nhân, gia đình của họ và / hoặc bạn đồng hành về sự cần thiết của các biện pháp kiềm chế thể chất.

- Chỉ được sử dụng khi thuốc theo đơn của bác sỹ và trong một thời gian hữu hạn, về nguyên tắc là không quá 2 giờ.

- Quy trình được thực hiện bởi nhân viên chăm sóc (năm thành viên, nhưng có thể cần thêm hai người trong một số trường hợp) với mỗi nhân viên chịu trách nhiệm cho một chi duy nhất. Bất kỳ ai giám sát quy trình cố định có trách nhiệm bảo vệ đầu và đường thở của bệnh nhân, đồng thời kiểm tra các dấu hiệu quan trọng trong suốt quy trình.

b. Có thể sử dụng các phương pháp cố định sau:

4 điểm: cẳng tay và cổ chân hay nói cách khác là cuối tứ chi khi bệnh nhân nằm trên giường (tránh nằm trên cáng), đầu ngẩng cao và các chi trên dọc theo thân. Tránh cắt đứt dòng máu đến tứ chi.

5 điểm: các chi cộng với ngực. Để cố định ngực, có thể sử dụng khăn trải giường hoặc băng đô. Các thanh chắn nên được đặt vuông góc với thân mình. Không đặt dây nịt dưới nách, vì điều này có thể gây hại cho đám rối phế quản. Ở phụ nữ, hãy cẩn thận với bầu ngực, sử dụng một dải băng đủ rộng để che chúng hoặc đặt dải băng ngay dưới bầu vú.

9 Điểm: trong trường hợp bị kích động nặng mà tất cả các kỹ thuật khác đều không thành công, hãy đặt đai cố định ở phần cuối của cả tứ chi, cánh tay, đùi và ngực.

Các lựa chọn khác: nịt bụng cho những bệnh nhân bị kích động nặng, nơi có thể không sử dụng đai nịt ngực hoặc để tránh cử động (ví dụ, sau phẫu thuật). Tuy nhiên, phải cẩn thận để không nén vùng phẫu thuật. Hộp chứa đầu gối là một giải pháp thay thế cho việc chứa đùi. Kẹp tay (để bệnh nhân không thể rút ống thông hoặc tự gây hại) có thể được thực hiện bằng găng tay bán sẵn hoặc bằng cách đặt bông vào mặt trong của bàn tay rồi buộc lại để tất cả các ngón tay đều được che phủ.

Việc theo dõi các dấu hiệu quan trọng, lưu lượng máu và vị trí băng bó (đau, nóng, sưng hoặc vết thương) nên bắt đầu ngay sau khi băng được đặt, sau đó thực hiện cứ sau 15 phút trong 60 phút, và sau đó cứ 30 phút trong 4 giờ hoặc cho đến khi bệnh nhân tỉnh giấc. Ghi lại toàn bộ quy trình vào biểu đồ của bệnh nhân, bao gồm cả biện minh và theo dõi.

c. Các loại vật liệu dùng để cố định

Các biện pháp hạn chế đơn giản nhất và ít tốn kém nhất là khăn quàng cổ bằng vải, tốt hơn là mềm và thoải mái trên da, nhưng có khả năng chịu lực. Chúng ta không khuyến khích sử dụng băng hoặc bất kỳ thiết bị nào được sử dụng bởi cơ quan cảnh sát, chẳng hạn như còng tay.

Cũng có thể sử dụng các dây buộc bằng da, vải hoặc canvas, miễn là chúng thoải mái và không gây hại cho bệnh nhân.

 

Hình 1: Hình ảnh toàn cảnh cố định bệnh nhân kích động tại 4 điểm

Hình 2: Hình ảnh toàn cảnh cố định tay và chân bệnh nhân kích động bằng băng bản dù có khóa 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Zimbroff D.L. (2008) Pharmacological control of acute agitation: focus on intramuscular preparations. CNS Drugs;22:199–212.

2. Gates D.M., Ross C.S., McQueen L. (2006) Violence against emergency department workers. J Emerg Med, 31:331–7.

3. Rueve M. E., Welton R. S. (2008).Violence and Mental Illness. Psychiatry (Edgmont).; 5(5): 34–48.

4.Zeller S., Rhoades R. W. (2010). Systematic reviews of assessment measures and pharmacologic treatments for agitation. Clin Ther; 32:403–25.

5. Cruz CM, Leiva JL, Borgoño RV, et al (2010). Epidemiología de la Urgencia Psiquiátrica en el Instituto Psiquiátrico "Dr. José Horwitz": Un nuevo estudio comparativo. Rev Chilena Neuro-Psiquiatr;48:175–83.

6. Baldaçara L., Flávia Ismael F.,  Leite V., et al (2019). Brazilian guidelines for the management of psychomotor agitation. Part 1. Non-pharmacological approach. Braz J Psychiatry ; 41(2): 153–167.

7. Bùi Quang Huy (2016): Nguyên nhân, chẩn đoán và điều trị Tâm thần phân liệt. Nhà xuất bản Y học.7 – 69.

8. Vieta E., Garriga M., Cardete L., et al (2017). Protocol for the managemennt of psychiatric patients with psychomtor agitation. BMC Psychiatry, 17(1) : 328.

 

9. Government of Western Australia, Department of Health (2006). The management of disturbed/violent behaviour in inpatient psychiatric settings. East Pearth: Government of Western Australia, Department of Health.

10. Richmond JS, Berlin JS, Fishkind AB, et al (2012). Verbal De-escalation of the Agitated Patient: Consensus Statement of the American Association for Emergency Psychiatry Project BETA De-escalation Workgroup. West J Emerg Med. ;13:17–25. 

11. Braga IP, de Souza JC, Leite MB, Fonseca VM, da Silva EM, Volpe FM (2016). Contenção física no hospital psiquiátrico: estudo transversal das práticas e fatores de risco. J Bras Psiquiatr ;65:53–9. 

12.

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

Thông tin mới nhất




Đăng nhập
Footer chưa được cập nhật nội dung hoặc chưa được duyệt !